Professional Documents
Culture Documents
Bài đã đăng trên Tạp chí Cầu Đường Việt Nam tháng 6 năm 2001
Page 1 of 6
Nguyễn Đức Toản, June 2001
Hiện nay loại Rocket Boomer 50 đang làm việc tại Những cố gắng đầu tiên của việc khoan Rocket
các công trình hầm trên khắp thế giới. Và số lượng được thực hiện với một búa khoan đá COP 1440 có cơ
loại Rocket Boomer 2 cần ban đầu đã bị vượt qua cấu xung kích được điều chỉnh để tạo công suất 20
nhiều bởi loại Rocket Boomer 3 cần hiệu suất cao hơn. kW. Máy khoan này đã đạt được độ xuyên sâu đầy ấn
tượng 3,6 m/ph qua đá cứng sơ khai (kỷ tiền Cambri).
Cho đến nay Rocket Boomer đã được các nhà thầu Và trong đá mềm thì nhanh, nhanh hơn rất nhiều.
ở Italy, Na Uy, Áo và Đức ưa chuộng. Hai máy
Rocket Boomer tại Hồ Treo là hai chiếc duy nhất
thuộc loại này trên đất Mỹ. H×nh 3 - C«ng suÊt khoan ®¸ vμ tèc ®é xuyªn
COP 1440
công trường nơi mà Rocket Boomer được sử dụng. 3
Thủy lực CS cao
COP 1440
2
Thủy lực nhẹ Thủy lực tiêu chuẩn
COP 1032 COP 1238
0 10.0 15.0
Năng lượng cho búa khoan COP 1440 được cấp từ 5.0 20.0 25.0
một may bơm, chạy bằng một môtơ điện 55 kW. Dòng N¨ng l−îng xung kÝch, kW
dầu thủy lực áp lực cao sau đó kích động cơ cấu va
đập, cơ cấu này là bí quyết cho khả năng xuyên đá.
Loại "turbo" COP 1440 này sớm thể hiện nhược
Mũi khoan xuyên vào đá nhanh đến đâu phụ thuộc điểm. Các bộ phận cần cột khoan bị hỏng chỉ sau một
vào sự làm việc của cơ cấu va đập và vào độ cứng của thời gian ngắn sử dụng, có các vấn đề về duy trì tính
đá, thường được biểu thị bằng cường độ nén. Loại sa làm việc liên tục của Rocket Boomer. Năng lượng
thạch mềm có thể khoan với tốc độ 4 m/phút trong khi xung kích 20 kW là quá lớn đối với cả búa khoan và
đó với loại granit cứng là 2,5 m/ph. cần khoan.
Trong máy khoan, piston chạy lên xuống với tốc độ Những kinh nghiệm ban đầu về tuổi thọ thép búa
50 đến 60 lần một giây. Mỗi khi piston chạm vào đáy khoan kém và các vấn đề cơ khí đã khiến cho máy
ống xilanh, nó tạo ra một năng lượng chấn động dạng Rocket Boomer có một khởi đầu tồi tệ. Và các nhà
sóng xung kích, truyền qua cột cần khoan tới mũi thiết kế khoan đá có một bài toán khó khăn phải giải
khoan. Tại đây, cú đập gây ra ứng suất trong khối đá quyết trước khi Rocket Boomer thực sự có thể đem ra
rồi phá đá ra từng mảnh. giới thiệu với khách hàng.
Việc đập liên hồi tích luỹ công suất tới 1 kW, là May sao, thủy lực là một phương tiện truyền năng
năng lượng khoan của một máy khoan đá nhất định. lượng linh hoạt. Công suất khoan đầu ra được quy
Theo định luật vật lý, công suất là một hàm số của định đơn giản thông qua áp suất thủy lực. Một bộ
khối lượng piston và vận tốc của nó tại thời điểm va nguồn 55 kW và áp lực thủy lực được giảm đi để có
chạm. Một áp suất thủy lực lớn hơn sẽ làm tăng vận được loại búa khoan COP 1440 với năng lượng xung
tốc của piston và do đó tăng cao năng suất khoan đá. kích 17 kW.
Ngoài ra, tốc độ va đập nhanh hơn cũng làm tăng công
suất kW của máy khoan.
Page 2 of 6
Nguyễn Đức Toản, June 2001
Page 3 of 6
Nguyễn Đức Toản, June 2001
bằng điện ECS khá phức tạp và phải giành cho một tài
liệu riêng.
3.3. Các hầm Đường bộ Hanging Lake
Cả hai hầm đều nổi trên mặt đất một đoạn ngắn tại
3.1. Dự án Hanging Lake nơi mà Suối Quế (Cinnamon Creek) cắt qua Hẽm núi
Glenwood. Tại đây là nơi đóng trại của nhà thầu. Từ
Việc đào đá của hai hầm đường bộ là phần việc vị trí được lựa chọn mang tính chiến lược này, bốn
chính của dự án xây dựng 13 km đường ở Glenwood cổng hầm được khai mở.
Canyon (Hẽm núi Glenwood), bang Colorado - Mỹ,
một trong những đoạn cuối cùng của dự án I 70. Công
việc đào đá cho hai hầm đường bộ song song có tổng
chiều dài là 1190 m. Cái tên "Hồ Treo - Hanging 3.4. NATM, Phương pháp Xây dựng Hầm Mới của
Lake" lấy theo tên của một cái hồ cổ gần đó nằm trên Áo
sườn đá, phía trên hẻm núi.
Khác với truyền thống cũ ở Mỹ, tại dự án Hầm
Dự án Glenwood Canyon được coi là dự án đường Hanging Lake người ta không dùng các vòm thép để
tốn kém nhất từng được biết đến, do vấn đề môi chống đỡ hang đào. Thay vào đó, một dạng Mỹ hóa
trường và không gian quá hạn hẹp. của NATM (New Austrian Tunnelling Method) nổi
tiếng đã được áp dụng.
Các đoạn tuyến được thiết kế trên quan điểm bảo
vệ vẻ đẹp của Glenwood Canyon với sự tác động nhỏ Lý thuyết của NATM có từ những năm 1930, và
nhất tới thiên nhiên hoang sơ. Việc đào đá bị hạn chế hiện nay từ "Mới" là không còn thích hợp nữa. Tuy
đến mức nhỏ nhất để không làm suy yếu chân vách nhiên, chúng ta ghi công người Áo vì đã phát minh ra
hẽm núi. Con đường I 70 băng qua các hầm núi đá và một kỹ thuật mà nó thích hợp tốt cho bất kỳ loại đá
qua các cây cầu, đặt trên các cột tháp, ở những vị trí nào và kích cỡ hầm nào, và hiện nay được ứng dụng
mà làn xe này nằm phía trên làn xe kia. trên khắp thế giới.
Hiện nay đã hoàn thành, đường I 70 Glenwood NATM lợi dụng cường độ vốn có của khối đá gốc
Canyon là một đường 4 làn mới thay thế cho Đường 6 và nhằm tối thiểu hóa chuyển vị ngay sau khi đào. Một
cũ chạy quanh co xung quanh chân hẽm núi sâu 300m. vòm chống được tạo thành trong khối đá bao quanh
Dự án Hanging Lake có tính hấp dẫn đặc biệt do hầm, bằng các bulông thép được ấn vào đá, giữ cho
những hạn chế đặt ra cho một dự án xây dựng lớn các khe nứt càng sít nhau càng tốt. Các bulông neo
trong một không gian rất nhỏ hẹp. vào đá được kết hợp với bêtông phun (shotcrete) để
tạo thành một gương đào hầm ổn định và an toàn.
Công việc đào của hai hầm ở Hanging Lake bắt
đầu năm 1989. Công tác khoan nổ mìn kết thúc cuối Ngược lại, các vòm thép tạo ra sự chống đỡ bên
tháng 11/1990, bốn tháng trước thời hạn, tuyến hầm ngoài. Các vòm này chỉ làm việc sau khi khối đá đã
đôi này được thông xe giữa năm 1991. bắt đầu suy thoái, và chuyển vị bên trong khối đá đã
truyền tải trọng lên vòm thép.
Page 4 of 6
Nguyễn Đức Toản, June 2001
3.5. NATM tại Hanging Lake chữa được thuê dài hạn. Các phụ tùng được dự trữ
ngay tại công trường, và các giàn khoan được bảo
NATM là một lý thuyết khá rộng để có thể thảo dưỡng theo dịnh kỳ.
luận kỹ trong bài viết này. Một cách vắn tắt, NATM
dựa trên một sự phân loại đá thành các cấp hạng đào, Đá là một hỗn hợp của các khoáng vật quartz,
theo chất lượng và yêu cầu dự tính đối với việc gia điorit và granit nứt nẻ, có cường độ nén nói chung bé
cường đá. Mỗi cấp hạng được gán cho các thông số về hơn 155 Mpa. Tốc độ khoan xuyên trung bình trong
kích thước lớn nhất của lỗ hang nổ phá, số lượng loại đá này với búa khoan COP 1440 và lỗ khoan
bulông neo cần thiết, bề dày lớp bêtông phun, v.v... 51mm là 2,74 m/phút.
Tại hầm Hanging Lake, tất cả các thông số được mô
tả tỉ mỉ trong tài liệu hợp đồng, để lại rất ít khoảng
trống cho một sự ứng biến thiếu chuẩn bị.
3.7. Khoan bằng máy Rocket Boomer
Các đoạn chủ yếu của đá núi dọc theo hầm
Hanging Lake được phân loại là tốt, 71%, trung bình Cả hai giàn Rocket Boomer đều được trang bị dẫn
20% và chỉ có 9% xấu. tiến cho thanh thép khoan dài 5,2 m. Thanh thép
khoan dẫn hướng được chọn bởi Nhà thầu với mục
Hai hầm được đào với mặt cắt phân nhỏ, phía trên đích lợi dụng cơ hội để nổ phá các bước đào dài làm
được tạo lò ngang và có bậc, theo như quy định kỹ bậc thềm, nơi mà hồ sơ đấu thầu không có hạn chế nào
thuật. Lò ngang phía trên được phân tách nhỏ hơn về chiều dài nổ phá.
thành một lò khảo sát và các vệt rạch bên, men về phía
sau với các khoảng cách đều đặn. Bậc thềm tiến sâu Các thợ máy đã đánh máy cao các giàn khoan tại
vào phía trong hầm, cũng có hai vệt rạch dọc theo Hanging Lake. “Rất dễ học và vận hành”, thợ khoan
tường hầm. Mỗi hầm được chia thành 6 gương đào. Phil Romero nói. Đồng nghiệp của anh ta tán thành:
“Là giàn khoan tốt nhất cho tới nay”.
Với hơn 90% đá là tốt và trung bình, ai đó có thể
thắc mắc về sự cần thiết của việc chia tách sự đào hầm
thành 6 gương đào riêng biệt.
3.8. Các kết quả: hệ số sử dụng cao, giá thành hạ
Vòm hầm gia cố bằng bulông neo đá, được lắp đặt
theo cách thông thường. Thanh thép Dywidag dài Bằng cách đào hầm phân chia gương đào NATM,
4,2m được sử dụng làm neo và gắn chặt vào lỗ khoan rất khó xác định tốc độ tiến lên. Tuy nhiên, nhiều dự
bằng vữa ximăng. án và công trường đã góp phần vào việc sử dụng rộng
rãi cả hai loại máy khoan Boomer và Boltec. Hợp
đồng sửa chữa cùng với một lịch trình bảo dưỡng đã
giữ cho các thiết bị luôn hoạt động, tới hơn 90%.
3.6. Các máy khoan Rocket Boomer và Boltec
Sự tiếp tục bảo trì cẩn thận cho các bộ phận thép
Để khoan hầm nhà thầu Frontier Kemper dã dùng của máy khoan đã được thực hiện. Mục đích là nhằm
hai giàn khoan của công ty Atlas Copco loại Rocket so sánh sự tiêu hao thép của cần khoan COP 1440 với
Boomer H245. Cả hai máy khoan được trang bị hai COP 1238.
tay với thủy lực, có cần khoan mạnh loại COP 1440 và
một tay với thứ ba có thùng dụng cụ dùng cho công Kết quả cho thấy giá thành cần khoan của COP
việc công cộng. Các giàn khoan, theo quy định của 1440 hoàn toàn cạnh tranh với bất kỳ loại máy khoan
Mỹ, được vận hành bởi 3 người, mỗi người một dầm thủy lực nào khác. Đã ghi nhận đươc giá trị trung bình
khoan. 0,48 USD/m khoan (~7.000 VND/m - N.D). Tuổi thọ
của bệ xilanh trung bình khoảng 3.800 mét khoan.
Ngoài ra tại hiện trường còn có hai máy khoan Một con số tương tự, 0,40 USD/mkhoan, áp dụng cho
khác để cơ giới hóa việc neo blông vào đá, loại Boltec chi phí phụ tùng của Rocket Boomer, bao gồm cả COP
351, mỗi máy khoan được trang bị một tay với, có lắp 1440.
cần khoan đá loại nhẹ COP 1032, và một thùng dụng
cụ để tạo thuận lợi cho việc lắp đặt bulông. Không nghi ngờ gì nữa, việc ứng dụng kỹ thuật
NATM tại dự án Hanging Lake là một thành công,
Để đảm bảo tính sẵn sàng tối đa của các giàn việc đào đá hoàn thành tháng 11/1990 trước thời hạn 4
khoan, Atlas Copco có một xưởng dạng côngtennơ tháng.
ngay tại công trường, quản lý bởi một nhân viên sửa
Page 5 of 6
Nguyễn Đức Toản, June 2001
Page 6 of 6