Professional Documents
Culture Documents
Points:
Khi kích thước 2 mẫu khác nhau, giá trị np0 cũng khác nhau, có thể dẫn đến sai
sót trong tính toán. Ngoài ra, lỗi có thể xuất hiện từ việc bỏ qua sử dụng xác suất
“or less”. Ta tính toán cho các điểm còn lại trên đường cong:
+ p0 = 0.005 -> 100p0 = 0.5;
(np0)I = 150 x 0.005 = 0.75
(np0)II = 200 x 0.005 = 1
(Pa)I = 0.826
(Pa)II = 0.133 x 0.981 + 0.034 x 0.920 = 0.162
Suy ra (Pa)combined = 0.826 + 0.162 = 0.988
+ p0 = 0.015 -> 100p0 = 1.5;
(np0)I = 150 x 0.015 = 2.25
(np0)II = 200 x 0.015 = 3
(Pa)I = 0.343
(Pa)II = 0.266 x 0.647 + 0.2 x 0.423 = 0.257
Suy ra (Pa)combined = 0.343 + 0.257 = 0.6
Tương tự với p0 = 0.02 thì (Pa)combined = 0.349
p0 = 0.025 thì (Pa)combined = 0.182
p0 = 0.03 thì (Pa)combined = 0.089
p0 = 0.04 thì (Pa)combined = 0.02
Nếu có thể ta nên chọn kích thước mẫu giống nhau để rút gọn phép tính và đơn
giản hóa việc kiểm tra. Do đó, nếu ko cho giá trị của r1 và r2 thì gán cho chúng
giá trị bằng c2+1.
Các bước vẽ đường OC làm tương tự như đối với kế hoạch lấy mẫu đơn.
Trong một phạm vi nhỏ (small circles), đường OC biểu diễn các dữ liệu rời rạc
và đường cong là không liên tục, tuy nhiên nó lại được vẽ một cách liên tục. Do
đó giá trị 4% là không thể, bởi nó biểu diễn 2.6 phế phẩm trong lô hàng có 65 chi
tiết [(65).(0.04)=2.6], nhưng 4.6% lại có thể, bởi nó biểu diễn có 3 phế phẩm
trong lô hàng [(65).(0.046)= 3.0]. Do vậy, đường cong chỉ xuất hiện ở phạm vi
nhỏ đã được định sẵn.
So sánh đường OC kiểu A và kiểu B trên hình 6-7 ta thấy đường OC kiểu A
luôn thấp hơn đường OC kiểu B. Khi kích thước lô hàng nhỏ thì 2 dạng đường
cong OC này sẽ sai khác nhau nhiều nên ta cần phải xây dựng đường OC kiểu A.
Ngược lại, ta chỉ cần bàn đến đường OC kiểu B.
4. Khi số chấp nhận c giảm đi thì đường OC dốc hơn. (Hình 6-11)
2.6. Mối quan hệ lợi ích giữa nhà sản xuất – người tiêu dùng
Thực ra tất cả các cách lấy mẫu đều tồn tại nguy cơ mâu thuẫn về lợi ích cho
cả 2 bên: nhà sản xuất và khách hàng.
- Rủi ro của nhà sản xuất (producer’s risk): hay còn gọi là α risk, tức là
nguy cơ một lô hàng tốt nhưng lại bị trả về khi qua kiểm tra chất lượng.
Gía trị α nằm trong khoảng từ 0.001 đến 0.1, thường là 0.05.
Do đó Pa = 1 – 0.05 = 0.95.
- Rủi ro của người tiêu dùng (consumer’s risk): hay còn gọi là β risk, tức là
nguy cơ một lô hàng xấu nhưng lại được chấp nhận qua đợt kiểm tra chất
lượng. β thường có giá trị là 0.1. Liên quan đến khái niệm consumer’s risk
là khái niệm LQL (limiting quality level). LQL là tỉ lệ phần trăm phế phẩm
lớn nhất mà người tiêu dùng có thể chấp nhận.
Vì vậy, để thực hiện một kế hoạch lấy mẫu, khách hàng và nhà cung ứng phải
thống nhất với nhau 4 điểm quan trọng sau:
+ Mức chất lượng có thể chấp nhận được (AQL): số phần trăm các sản phẩm
không phù hợp mà ta có thể chấp nhận được một cách bình thường. Một lô hàng
có chứa ít hơn AQL phế phẩm thì là một lô hàng tốt.
+ Mức giới hạn chất lượng cho phép (LQL): Tỉ lệ phần trăm tối đa phế phẩm
mà ta có thể chấp nhận được. Một lô hàng chứa nhiều hơn LQL phế phẩm là một
lô hàng xấu.
+ Nguy cơ của nhà sản xuất α risk
+ Nguy cơ của khách hàng β risk
Với AQL và LQL cho trước, nếu chúng ta tăng α và giữ nguyên β thì chúng ta
đã tăng nguy cơ một lô hàng đạt yêu cầu bị từ chối. Nếu chúng ta giữ nguyên α
và giảm β thì chúng ta đã giảm khả năng chấp nhận một lô hàng xấu. Trong cả 2
trường hợp thì nhà sản xuất đều thiệt hơn. Với cặp (AQL, α) và (LQL, β) chúng
ta xác định được 2 điểm trên đường cong OC. Năm 1952, J.M.Cameron đã đưa ra
một bảng tính các giá trị của n và c ứng với cặp (AQL, α) và (LQL, β).
2.7. Chất lượng đầu ra trung bình (Average Outgoing Quality - AOQ)
AOQ là một kỹ thuật khác để đánh giá Sampling plan.
Hình 6-14 biểu diễn một đường cong AOQ cho Sampling plan: N = 3000, n = 89,
và c = 2, đây là kế hoạch lấy mẫu tương tự như cho đường cong OC thể hiện
trong Hình 6-3.
Các thông tin cho việc xây dựng một đường cong AOQ thu được bằng cách
thêm một cột AOQ vào bảng giá trị được sử dụng để xây dựng đường cong OC.
Bảng 6-3 biểu diễn thông tin về đường cong OC và các cột bổ sung cho đường
cong AOQ.
AOQ phần trăm phế phẩm được xác định theo công thức:
AOQ = (100p0).(Pa)
Công thức này không tính đến các phần tử lỗi bị loại bỏ, tuy nhiên, nó lại rất
dễ gần gũi với một số mục đích cụ thể và đơn giản khi sử dụng.
Các đường cong được xây dựng bằng cách vẽ các điểm với 2 thông số là: phần
trăm sản phẩm lỗi (100p0) và giá trị AOQ tương ứng của nó.
Gỉa sử rằng bất kỳ lô nào bị khách hàng từ chối đều được nhà sản xuất sửa
chữa hoặc sắp xếp và trở lại với 100% sản phẩm tốt. Nếu khuyết điểm không thể
cải thiện, AOQ bằng với Incoming Quality, và trường hợp này được thể hiện
bằng một đường thẳng trong hình 6-14.
Phân tích các đường cong cho thấy rằng khi chất lượng Incoming là 2,0%
không đạt, AOQ là 1,46% không đạt, và khi chất lượng Incoming là 6,0% không
đạt, AOQ là 0,64% không đạt. Bởi vì các lô hàng bị từ chối đều được khắc phục
nên AOQ là luôn luôn tốt hơn so với chất lượng Incoming. Trong thực tế, có một
giới hạn được đưa ra là AOQL (Average outgoing quality limit). Cho nên, với kế
hoạch lấy mẫu này, khi tỷ lệ phế phẩm của Incoming thay đổi, AOQ không bao
giờ vượt quá giới hạn khoảng 1,6% phế phẩm.
Để hiểu hơn về các khái niệm về lấy mẫu chấp nhận ta có thể xét ví dụ sau:
Giả sử rằng 15 lô có N = 3000 được chuyển từ nhà sản xuất đến người tiêu
dùng. Lô có tỉ lệ lỗi là 2%, thực hiện kế hoạch lấy mẫu có n = 89 và số chấp nhận
c = 2 để xác định xác suất chấp nhận. Hình 6-15 biểu diễn thông tin này bằng một
đường liền mạch.
Đường cong OC cho kế hoạch lấy mẫu này (hình 6-3) cho thấy xác suất chấp
nhận cho lô có 2% phế phẩm là 0,731. Do đó, 11 lô (15x0.731 = 10,97) được
chấp nhận bởi người tiêu dùng, được biểu diễn bởi các đường lượn sóng. Bốn lô
bị từ chối sau khi kiểm tra lấy mẫu được trả lại cho nhà sản xuất để cải thiện,
được thể hiện bằng đường nét đứt. Bốn lô được kiểm tra 100% xong với tỉ lệ lỗi
là 0% sẽ được giao lại cho khách hàng, được thể hiện bằng các đường đứt nét.
Một bản tóm tắt về những gì khách hàng thực sự nhận được hiển thị ở phía
dưới của hình vẽ. 2%, hay 240 sản phẩm, trong bốn lô sửa chữa được loại bỏ bởi
các nhà sản xuất, do đó nó sẽ cung cấp 11.760 sản phẩm thay vì 12.000. Các tính
toán cho thấy người tiêu dùng thực sự nhận được 1,47% sản phẩm lỗi, trong khi
chất lượng của nhà sản xuất là 2% phế phẩm. Cần nhấn mạnh rằng hệ thống lấy
mẫu chấp nhận chỉ hoạt động khi các lô bị từ chối được trả lại cho nhà sản xuất
và sửa chữa. Các AQL cho kế hoạch lấy mẫu này với α = 0,05 là 0,9%. Do đó,
nhà sản xuất với tỉ lệ phế phẩm là 2% thì không đạt được mức độ chất lượng
mong muốn.
Đường cong AOQ, kết hợp với đường cong OC, cung cấp cho ta hai công cụ
mạnh mẽ để mô tả và phân tích Acceptance Sampling Plan.
Bước đầu tiên, ta cần xác định tỉ số: p0.1/p0..95 = 0.078/0.09 = 8.667
Nhìn vào bảng 6-4 ta thấy giá trị 8.667 nằm giữa hàng c=1 và c=2.
Do đó kế hoạch lấy mẫu đáp ứng quy định của consumer là :
+ c = 1: tra bảng 6-4 ta được np0.10 = 3.890
suy ra n = np0.10 / p0.10 = 3.890 / 0.078 = 49.9 => n = 50
+ c = 2: tra bảng 6-4 ta được np0.10 = 5.322
suy ra n = np0.10 / p0.10 = 5.322 / 0.078 = 68.2 => n = 68
Kế hoạch lấy mẫu đáp ứng quy định của producer là:
+ c = 1: tra bảng 6-4 ta được np0.95 = 0.355
suy ra n = np0.95 / p0.95 = 0.355 / 0.009 = 39.4 => n = 39
+ c = 2: tra bảng 6-4 ta được np0.95 = 0.818
suy ra n = np0.95 / p0.95 = 0.818 / 0.009 = 90.8 => n = 91
Trong 4 kế hoạch lấy mẫu ở trên, lựa chọn kế hoạch nào là phụ thuộc vào một
trong 4 tiêu chỉ bổ sung:
Tiêu chí bổ sung thứ nhất: kích thước mẫu nhỏ nhất được chọn.
Ở đây chọn c = 1, n = 39.
Tiêu chí bổ sung thứ hai: kích thước mẫu lớn nhất được chọn.
Ở đây chọn c = 2, n = 91.
Tiêu chí bổ sung thứ ba: kế hoạch đáp ứng điều kiện của consumer và gần nhất
với điều kiện của producer được chọn.
Ở đây có 2 kế hoạch đáp ứng đk của consumer là c = 1, n = 50 và c = 2, n
= 68.
Ta có: c=1, n=50: p0.95 = np0.95 / n = 0.355/50 = 0.007
c=2, n=68: p0.95 = np0.95 / n = 0.818/50 = 0.012
Do 0.007 gần với 0.009 hơn nên chọn c=1, n=50 ;
Tiêu chí bổ sung thứ tư: kế hoạch đáp ứng điều kiện của producer và gần nhất
với điều kiện của consumer được chọn.
Ở đây có 2 kế hoạch đáp ứng đk của producer là c = 1, n = 39 và c = 2, n =
91.
Ta có: c=1, n=39: p0.10 = np0.10 / n = 3.890/39 = 0.100
c=2, n=91: p0.95 = np0.95 / n = 5.322/91 = 0.058
Do 0.058 gần với 0.078 hơn nên chọn c=2, n=91;
From 24Continuous Sampling Plan.
Trong 3 mức độ khảo sát thì yêu cầu chấp nhận đối với chế độ tightened sẽ
nghiêm ngặt hơn mức độ normal.
Thực tế, có mẫu được chấp nhận khi thực hiện khảo sát normal nhưng lại bị từ
chối khi khảo sát ở mức độ tightened.
Riêng với mức độ reduced thì kích thước mẫu xấp xỉ 40% kích thước mẫu của
mức độ normal và tightened, điều này tiết kiệm đáng kể chi phí lấy mẫu.
VD: Thực hiện Single sampling ở mức độ tightened, sử dụng bảng 6-7 với AQL
= 4%, mã kí hiệu D, mã kí hiệu thay đổi đến F, và kích thước mẫu thay đổi từ 8
đến 20.
Nếu mũi tên chỉ xuống có nghĩa kích thước mẫu như thế là quá nhỏ để đưa ra
quyết định, mũi tên chỉ lên thì có nghĩa quyết định có thể được đưa ra với một
kích thước mẫu nhỏ hơn. Trong một số trường hợp kích thước mẫu có thể lớn
hơn kích thước lô, và khi đó ta thực hiện khảo sát 100%.
Đối với Double Sampling:
Tra bảng 6-9, 6-10 và 6-11 tương ứng với 3 mức độ khảo sát normal, tightened
và reduced. Cách tra bảng tương tự như đối với Single sampling. Xem ví dụ trang
224.
Đối với Multiple Sampling:
Chuẩn cho tối đa 7 Sample. Tra bảng 6-12, 6-13, 6-14 tương ứng với normal,
tightened và reduced. Cách tra bảng tương tự với double sampling.
Xem ví dụ trang 248.
Có 2 kí tự khác nhau được sử dụng trong các bảng của multiple sampling. Kí
tự # được dùng để nói rằng không được phép đưa ra kết luận ở lần này vì kích
thước mẫu quá nhỏ. Gặp kí tự ++ trong bảng thì hiểu rằng nên sử dụng double
sampling tương ứng hoặc là multiple sampling ở bên dưới nếu có thể.
4.5. Các cấp độ khảo sát trên mẫu
Cấp độ khảo sát chia ra 7 cấp độ gồm 3 cấp độ tổng quát và 4 cấp độ kiểm tra
đặt biệt.
- Cấp Reduced: mẫu nhỏ hơn Normal nên chi phí ít hơn và cũng ít nghiêm ngặt
hơn
- Cấp Normal: cấp bình thường.
- Cấp Tightened: mẫu lớn hơn nên chi phí kiểm tra cao hơn, độ nghiêm ngặt
cũng lớn hơn.
- Cấp đặc biệt: được sử dụng trong trường hợp đặc biệt, mẫu nhỏ, kiểm tra ít
nghiêm ngặt và nguy cơ của khách hàng cao.
Tùy từng trường hợp cụ thể mà ta lựa chọn cấp độ áp dụng cho phù hợp.
Hai bảng ANSI và AFNOR có cách trình bày khác nhau nhưng cách sử dụng thì
giống nhau.
Các chuẩn cũng xác định các quy tắc ứng dụng để thay đổi phương thức:
- Từ Normal sang Reduced:
Được áp dụng nếu 3 điều kiện tối thiểu được thỏa mãn:
+ 10 lô liên tiếp được chấp nhận sau khi kiểm tra Normal
+ tổng số các sản phẩm không đạt trong 10 lô đó phải < một giá trị chuẩn
được cho trước, tùy thuộc vào AQL và tổng số sản phẩm được kiểm tra.
+ Khách hàng đồng ý
- Từ Reduced sang Normal:
Được áp dụng khi:
+ lô hàng bị từ chối
+ số các sản phẩm không đạt nhỏ hơn giá trị từ chối Re nhưng lại lớn hơn
giá trị chấp nhận Ac.
- Từ Normal sang Tightened: Nếu gặp 2 lô sản phẩm bị từ chối trong 5 (hoặc
ít hơn) lô sản phẩm liên tiếp
- Từ Tightened sang Normal: nếu ta gặp 5 lô sản phẩm được chấp nhận liên
tiếp theo cấp độ tightened.
- Sau 10 lô kiểm tra liên tiếp ở cấp độ tightened mà cấp độ Normal vẫn chưa
được thiết lập thì ngừng giao hàng.
5. Chương trình trên máy tính
Chương trình chạy trên máy tính được đưa ra trong hình 6-25, tính toán giá trị
Pa theo p cho một đường cong OC cho Single Sampling. Sử dụng công thức xác
suất Poisson để tính toán sẽ cho kết quả chính xác hơn sử dụng bảng bởi nó tránh
được các lỗi làm tròn số. Đôi khi người đọc sẽ thích tra giá trị trong bảng, nhưng
nếu đòi hỏi phải vẽ nhiều điểm hơn trên đường cong thì các kết quả sẽ sai lệch.
CHƯƠNG 7: ADDITIONAL ACCEPTANCE SAMPLING
PLAN SYSTEMS
1.2. Phương pháp lấy mẫu theo chuỗi (Chain Sampling Inspection Plan -
272)
Một dạng đặc biệt của lot-by-lot acceptance sampling plan for attributes, được
phát triển bởi H.F.Dodge.
Thực tế, khi việc khảo sát đánh giá gây tốn kém và có tính phá hoại sản phẩm
thì việc khảo sát trên mẫu có kích thước nhỏ là rất cần thiết. Với các mẫu có kích
thước là 5, 10, 15, … thì thường có số chấp nhận c = 0.
Đối với Single sampling c = 0 có một đặc điểm không mong muốn, đó là hình
dạng đường OC ở a risk rất xấu. Xem hình 7-1 trang 273.
Trong phương pháp lấy mẫu tuần tự có sử dụng kết quả của các mẫu trước đó.
Minh họa trên hình 7-2 trang 273
Các bước tiến hành:
- Với mỗi lô, chọn kích thước mẫu n và kiểm tra sự tương thích giữa các đặc
tính kỹ thuật (?)
- Nếu trong mẫu không có sản phẩm nào hỏng thì accept lô, nếu mẫu có 2 hoặc
nhiều hơn phế phẩm thì reject lô, và nếu trong mẫu có 1 phế phẩm thì nó có thể
được accept nếu như không có phế phẩm nào trong mẫu i trước đó.
1.3. Phương pháp lấy mẫu tuần tự (sequential sampling – 275)
i – clearance number
f – sampling frequency (tỉ lệ sản phẩm được kiểm tra trên tổng số sản
phẩm đi qua trạm kiểm tra trong suốt giai đoạn khảo sát mẫu)
Do đó nếu f = 1/20 thì có nghĩa là cứ với mỗi lượt 20 sản phẩm thì sẽ thực
hiện một khảo sát mẫu. CSP-1 plan được xác định bởi giá trị AOQL, xem trong
bảng 7-6 trang 280, tùy thuộc vào giá trị f ta sẽ có được các giá trị i tương ứng.
Phân tích bảng này ta thấy khi giá trị f tăng thì i tăng.
Để lựa chọn giá trị f và i cho một AOQL nào đó, cần phải xem xét thực tế.
Nếu f nhỏ hơn, protection from spotty quality decreases, đặc biệt với các giá trị
nhỏ hơn 1/50. Môt cân nhắc nữa là số lượng sản xuất mỗi ca, khi số lượng tăng
lên, giá trị của f có thể giảm. Ngoài ra, giá trị của f có thể bị ảnh hưởng bởi việc
lấy mẫu.
2.3. CSP-2 plans
Phiên bản tiếp theo của CSP-1 là CSP-2. Ở CSP-1 đòi hỏi quay trở lại kiểm
tra 100% (requires a return to 100% inspection) từ bất cứ chỗ nào tìm thấy lỗi, thì
ở CSP-2 không yêu cầu như vậy, trừ khi tìm thấy lỗi thứ 2 ở the next i hoặc đơn
vị mẫu ít hơn. Các bước thực hiện CSP-2 Plans. Mục đích của CSP-2 là tránh
việc một lỗi đơn lẻ xảy ra, phải quay trở lại kiểm tra 100%.
Kế hoạch được đánh chỉ số bởi một AOQL cụ thể, AOQL cung cấp cho các sự
kết hợp khác nhau của i và f, thể hiện như trong Bảng 7-9 trang 290. Do đó, i =
35, f = 1/5 và i = 59, f = 1/15 là hai trong số nhiều kế hoạch cho AOQL = 2.90.
Đối với phương án thứ hai, i = 59, f = 1/15, tiếp tục lấy mẫu kiểm tra 1 trong
số 15 sau khi một lỗi được tìm thấy. Nếu sản phẩm lỗi thứ hai được tìm thấy
trong số 59 đơn vị mẫu tiếp theo, thì thực hiện kiểm tra 100%. Nếu không tìm
thấy sản phẩm lỗi thứ hai, tiếp tục lấy mẫu mà không cần quy định có điều kiện.
2.4. MIL-STD-1235B
Chuẩn bao gồm 5 kế hoạch lấy mẫu liên tục khác nhau (continuous sampling
plans).
Sử dụng ba loại mức độ: rất quan trọng, quan trọng, và không quan trọng.
Kế hoạch lấy mẫu liên tục được thiết kế dựa trên các giới hạn chất lượng ra trung
bình (AOQL). Để có thể so sánh với MIL-STD-105D/Z1.4 và các tiêu chuẩn
khác, kế hoạch này cũng được đánh chỉ số bởi mức độ chấp nhận (AQL). AQL
chỉ là một chỉ mục cho các plan và không có ý nghĩa khác.
Tiêu chuẩn có quy định đặc biệt cho các lỗi rất quan trọng (critical
nonconformities). Chỉ có hai kế hoạch, CSP-1 và CSP-F, có thể được sử dụng
cho các lỗi rất quan trọng. Trong những trường hợp này, cơ quan có trách nhiệm
(người tiêu dùng) có thể yêu cầu kiểm tra 100% ở tất cả các lần.
Trong mỗi 5 kế hoạch lấy mẫu, quy định được tạo ra cho việc ngừng kiểm tra.
Người tiêu dùng có thể ngừng chấp nhận sản phẩm khi chất lượng sản phẩm khi
mà kiểm tra 100% tiếp tục vượt quá số phần tử quy định, s. Nói cách khác, nếu
việc kiểm tra lấy mẫu không nằm trong s đơn vị, chất lượng sản phẩm là dưới
tiêu chuẩn và chấp nhận sản phẩm có thể bị ngừng lại. Ở đây ta không có dạng
văn bản cho bảng giá trị s.
Kế hoạch lấy mẫu được thiết kế bằng các chữ cái mã. Bảng 7-10 cung cấp
một loạt các ký tự dựa trên số lượng sản phẩm trong một khoảng thời gian sản
xuất (thường là một ca 8 giờ). Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn các chữ
cái mã hóa là thời gian kiểm tra trên một đơn vị sản phẩm, tốc độ sản xuất, và các
kiểm tra khác. Khi phải cân nhắc thời gian khảo sát idle thì một kế hoạch với một
tần số lấy mẫu cao hơn và số lượng giải phóng mặt bằng thấp hơn thường được
ưa thích hơn.
CSP-1 and CSP-2 plans (290)
Cả CSP-1 và CSP-2 đều được kết hợp trong cùng một chuẩn, ngoại trừ hình
thức là khác nhau, bao gồm các chữ cái mã hóa cho kích thước mẫu và AQL’s
được chỉ ra trong bảng 7-11 dành cho kế hoạch CSP-T.
CSP-F plans:
CSP-F là thủ tục lấy mẫu liên tục cấp single-level, cung cấp các trình tự xen
kẽ giữa kiểm tra 100% và kiểm tra trên mẫu. Cách thức tiến hành cũng tương tự
như kế hoạch CSP-1, được thể hiện trên Hình 7-8. Kế hoạch CSP-F được index
bởi AOQL và số lượng sản phẩm được sản xuất trong một khoảng thời gian. Điều
này cho phép số lượng clearance nhỏ hơn được sử dụng, cho phép kế hoạch CSP-
F được áp dụng trong trường mà việc kiểm tra là tốn nhiều thời gian.
Có 12 bảng cho kế hoạch CSP-F, mỗi bảng đại diện cho một giá trị AOQL
khác nhau. Bảng 7-11 là một ví dụ cho AOQL = 0,33%. Bảng cho các giá trị
AOQL khác không được đề cập trong sách. Gía trị i ở dòng cuối cùng của bảng
cũng giống như ở kế hoạch CSP-1 với AOQL = 0,33%.
Một ví dụ sẽ minh họa các bước thực hiện. AOQL = 0,33%, f = 1/4, lot size N=
7500 cho giá trị i = 177 từ bảng 7-11.
……….
CSP-T
……..
CSP-V plans (293)
III. Acceptance Sampling Plans For Variables (294)
3.1. Introducion
Trong khi các kế hoạch lấy mẫu cho attribute là dạng phổ biến nhất của
acceptance sampling, thì cũng có nhiều trường hợp yêu cầu lấy mẫu cho Variable.
Lấy mẫu variable dựa trên các thống kê mẫu (sample statistics) của sai lệch trung
bình, sai lệch tiêu chuẩn và các dạng phân bố tần số.
Advantages and disadvantages
Variable Sampling có ưu điểm chính là kích thước mẫu nhỏ hơn đáng kể so
với Attribute Sampling. Bên cạnh đó, variable sampling cung cấp cơ sở tốt hơn
để cải thiện chất lượng và đưa ra nhiều thông tin để thực hiện một quyết định.
Một trong những nhược điểm của variable sampling là chỉ có một đặc điểm
kỹ thuật được đánh giá, nên để đánh giá một đặc điểm chất lượng thì cần một kế
hoạch khảo sát mẫu riêng. Variable Sampling thường bao gồm chi phí thiết bị,
clerical và administrative cao hơn. Hơn nữa, dạng phân bố quần thể phải được
biết trước hoặc ước lượng được.
Type of sampling plans
Có 2 dạng lấy mẫu variable: percent nonconforming và process parameter.
Variable plans cho percent nonconforming được thiết kế để xác định tỷ lệ sản
phẩm bên ngoài các đặc điểm kỹ thuật. Đối với variable plan cho percent
nonconforming, ở chương này chúng ta sẽ bàn về Shainin lot plot và MIL-STD-
414/Z1.9
Variable plans cho các thông số quá trình được thiết kế để điều khiển độ lệch
trung bình và độ lệch chuẩn phân bố đến các level xác định. Kế hoạch lấy mẫu
của dạng này là acceptance control chart, lấy mẫu theo tuần tự cho variables và
kiểm tra giả thiết (hypothesis testing). Bởi vì các kế hoạch này ít được ứng dụng,
nên chúng sẽ được nói ngắn gọn ở cuối chương.
3.2. Shainin lot plot plan
Kế hoạch Shainin lot plot là kế hoạch lấy mẫu variable được sử dụng rộng rãi
trong công nghiệp, được phát triển bởi Dorian Shainin. Kế hoạch này sử dụng
đường phân bố tần số để đánh giá mẫu, quyết định loại bỏ hay chấp nhận lot. Đặc
điểm quan trọng nhất của kế hoạch này là nó thích hợp với cả dạng phân bố tần
số bình thường và không bình thường. Một đặc điểm nữa là tính đơn giản của nó.
Nó là một kế hoạch thực tế cho kiểm tra nội bộ cũng như receiving inspection.
(Trang 296)
3.3. Lot plot method
Các phương pháp để tìm lot plots như sau:
1. Một mẫu ngẫu nhiên 10 nhóm nhỏ được lấy từ lot, mỗi nhóm có n=5,
tổng số item là 50.
2. Giá trị trung bình Xtb và biên độ R, được tính toán cho mỗi nhóm và
được biểu diễn trên bảng 7-13.
3. Xây dựng biểu đồ histogram, sử dụng phương pháp đã được mô tả ở
chương 2. Biểu đồ histogram với 9 cột, độ rộng 0.3 được biểu diễn trên
hình 7-12.
4. Giá trị trung bình của các giá trị Xtb, và Rtb là:
……..
5. Sử dụng các giá trị sau, giới hạn trên và giới hạn dưới của lot được tính
toán như sau:
……………….
….
3.5. Comments
- Như đã biết, phương pháp lot plot tương đối đơn giản, và rất hiệu quả trong
việc cải tiến chất lượng và giảm chi phí kiểm tra.
- Lot plots được trả lại cho nhà sản xuất và việc này sẽ tiếp tục cải thiện chất
lượng sản phẩm.
- Người thanh tra có thể chấp nhật lot, tuy nhiên, disposition of unsatisfactory
lots is left to a material-review board.
- Những người dùng phương pháp lot plot đã sửa đổi phương pháp Shainin
cho trường hợp riêng của họ.
- Nhược điểm chính của phương pháp này là các dạng lot plot không phải
luôn đúng như các phân bố thực tế. Shainin chỉ ra rằng lot plot là gần như không
có tác dụng thực tế tới các quyết định cuối cùng hoặc nếu có bất kỳ sai sót thì
chúng cũng đang ở trong một hướng an toàn.
Bảng 7-15
Bảng 7-16
Công thức cho các chỉ số số lượng, Q, rất giống với công thức cho các giá trị
Z được đưa ra trong chương 2. Bảng 7-16 dựa trên Q và kích thước mẫu, trong
khi Bảng A trong Phụ lục dựa trên giá trị Z và infinite situation. Giá trị của p là tỉ
lệ sản phẩm lỗi ước tính, ở trên hoặc dưới giới hạn kỹ thuật được thể hiện trong
hình 7-15. Miễn là pL, pU, hoặc pL + pU ít hơn so với giá trị max của tỉ lệ sản phẩm
lỗi, M (cho một AQL riêng và n), lô được chấp nhận.
Mức Tightened và Normal sử dụng cùng một bảng. Các giá trị AQL cho khảo sát
mức Normal được index từ đầu bảng, còn Tightened được index ở cuối bảng.
Quy tắc chuyển đổi cũng giống như MIL-STD-105D/Z1.4. (Trang 304)
MIL-STD-105D/Z1.9 bao gồm một quy trình thực hiện đặc biệt cho ứng dụng lấy
mẫu attribute-variable hỗn hợp. Nếu lô không đáp ứng các tiêu chí chấp nhận của
kế hoạch lấy mẫu variable, thì một kế hoạch lấy mẫu attribute, mức độ Tightened
và với cùng một giá trị AQL, sẽ thu được từ MIL-STD-105D/Z1.4. Lot có thể
được chấp nhận bởi một trong các kế hoạch theo thứ tự nhưng phải bị từ chối bởi
cả hai biến và kế hoạch thuộc tính.