Professional Documents
Culture Documents
Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)
[Phần I]
MAI HOA
Chủ nhật, 16 Tháng 12 2018 20:19
font size Web vhna
Tìm
Thích 4 Chia sẻ Tweet
BÀI NHIỀU NGƯỜI ĐỌC TRONG TUẦN
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ trở thành quốc gia lớn mạnh nhất hành tinh, là nước duy nhất sở
hữu vũ khí hạt nhân tại thời điểm đó và là một trong những nước có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo Từ nước đến gió… (Đọc Giấu vàng trong
an của Liên Hợp Quốc. Trong điều kiện bàn cờ thế giới về bản chất là cuộc chơi giữa các nước lớn, thì gió thu, Chân dung văn học Đàm luận
với ngần ấy ưu thế, Mỹ không chỉ sở hữu tiếng nói trọng lượng trong giải quyết nhiều vấn đề quốc tế, văn chương của Khuất Bình Nguyên, Nxb
Hội Nhà văn, 2019)
mà nhiều diễn biến quốc tế sẽ vận động theo quan điểm, lập trường của Mỹ cũng như theo xu hướng
Hà Nội tranh luận đầu 1975 về đường lối
mà Mỹ mong muốn. chiến lược ở miền Nam
Hậu Chiến tranh thế giới thứ hai, một câu chuyện có tính thời sự nóng bỏng, được nhiều nước quan
tâm là về giải thuộc địa và phi thực dân hóa. Thái độ, chính sách của Mỹ về vấn đề này có ảnh hưởng
quan trọng đối với ý định, kế hoạch khôi phục quyền cai trị các thuộc địa của nhiều nước, trong đó có sự
quay lại Đông Dương (và Việt Nam) của người Pháp.
I.
Vào cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ là nước sở hữu số lượng và diện tích thuộc địa vào loại ít nhất thế giới trong
so sánh với nhiều nước đế quốc khác, nhất là với Anh và Pháp. Người dân Mỹ chỉ trích mạnh mẽ các
cường quốc châu Âu đang áp đặt chủ nghĩa thực dân lên các nước thuộc địa ở khắp nơi trên thế giới.
Ở Đông Nam Á, Mỹ có thuộc địa duy nhất là Philippines, nơi Mỹ thiết lập quyền thống trị từ năm 1902;
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhinrathegioi/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19461954 1/8
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)[Phần I]
tuy nhiên, ngay từ thời điểm đó, Mỹ đã không coi đây là “ách thống trị thực dân”, mà gọi đó là chế độ
"bảo hộ nhân từ" trên cơ sở chính phủ tự trị bản xứ có hiến pháp và quốc hội riêng. Mỹ tuyên bố bằng
con đường đó sẽ từng bước giúp nhân dân Philippines thực hiện tự trị, tự quản. Tháng 31934, Quốc hội
Mỹ thông qua Đạo luật TydingsMcDuffie, quy định sẽ thành lập một nước Philippines thịnh vượng chung
(Commonwealth of the Philippines) vào năm 1936. Nhà nước Philippines thịnh vượng chung sẽ tồn tại
trong vòng 10 năm và là hình thức nhà nước quá độ để tiến tới một nước Philippines độc lập vào năm
1946. Trong 10 năm quá độ (19361946), chế độ tự trị vẫn được duy trì ở Philippines và quyền lợi của
Mỹ vẫn được đảm bảo.
Sau thất bại của Mỹ tại Trân Châu Cảng (121941) quân đội Nhật Bản tấn công và đánh chiếm
Philippines, Manila rơi vào tay Nhật (21942). Một Ủy ban điều hành đất nước được thành lập từ hơn 30
thành viên của giới tinh hoa chính trị Philippines thân Nhật. Phối hợp với lực lượng quân sự Nhật Bản tại
Manila, Ủy ban này cai quản Philippines và tồn tại đến tháng 91943, khi nó được thay thế bằng sự ra
đời của nước Cộng hòa Philippines độc lập (Đệ nhị Cộng hòa Philippines) với Tổng thống là José Laurel
(được lựa chọn bởi người Nhật). Người Nhật đã trao trả độc lập cho Philippines trong nỗ lực tuyên
truyền về chủ nghĩa Liên Á.
Cuối năm 1944, Nhật Bản bị đánh bại, quân đội Mỹ chiếm lại Philippines và đến năm 1946 đã trao trả
độc lập cho quần đảo này. Cuối cùng, giấc mơ độc lập của nhân dân Philippines đã trở thành hiện thực.
Từ trường hợp Philippines, mô hình "bảo hộ nhân từ" được Mỹ coi là khuôn mẫu trong giải quyết các
vấn đề liên quan đến thuộc địa sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó cũng là một trong những cơ sở để
Mỹ đề xuất chế độ ủy trị quốc tế đối với các thuộc địa cũ của các nước đế quốc. Vào năm 1941, khi
Chiến tranh thế giới thứ hai còn đang diễn ra hết sức khốc liệt, Mỹ đã cam kết thực hiện nguyên tắc về BÀI NỔI BẬT
quyền tự quyết của các dân tộc thông qua việc cùng với Anh ra Tuyên bố chung Đại Tây Dương. Điều 3
Vua Hàm Nghi Người nghệ sĩ hội họa và điêu
của bản Tuyên bố nêu rõ rằng hai nước này “tôn trọng quyền lựa chọn chính thể mình muốn của các khắc
dân tộc, ước mong thấy chủ quyền và chính phủ tự trị của các nước trước kia bị các nước khác dùng Từ «Sự Ðụng Ðộ Giữa Các Nền Văn Minh» và
Nhân Chủng Học nhìn lại Chủ Nghĩa Tương Ðối
sức mạnh tước mất quyền đó được lập lại”[1]. Một năm sau đó (năm 1942), những nội dung này một lần Văn Hoá
nữa được xác nhận và nhấn mạnh lại trong dịp 26 quốc gia thông qua Hiến chương Đại Tây Dương. Giải thuộc địa và hậu thuộc địa
Nguồn sáng Vũ Ngọc Phan
Tháng 61945, Hiến chương Liên Hợp Quốc được ký kết và trong phần Tuyên ngôn về những lãnh thổ
Hoàng Nguyên, người nhạc sỹ lãng mạn và tài
không tự trị đã yêu cầu các quốc gia thành viên có trách nhiệm hoặc đảm đương trách nhiệm “quản trị hoa
những lãnh thổ mà nhân dân chưa hoàn toàn tự quản trị được, thừa nhận nguyên tắc đặt quyền lợi của Lá bài tẩy trong Chiến Tranh Thương Mại Mỹ
Trung
nhân dân các lãnh thổ lên hàng đầu”[2], nhằm giúp các lãnh thổ đó được phồn vinh trong khuôn khổ của
80 năm thành lập ấp Hà Đông (Đà Lạt): Tổng
hệ thống hoà bình và an ninh quốc tế do Hiến chương định ra. đốc Hoàng Trọng Phu có vai trò như thế nào?
Thi tốt nghiệp THPT: Nên hay không?
Qua những diễn biến nói trên, có thể kết luận rằng, trong và sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, về mặt
Nguy cơ từ một nền giáo dục gian lận
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhinrathegioi/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19461954 2/8
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)[Phần I]
lý thuyết, đã xuất hiện những điều kiện, những cơ hội cũng như khả năng cho các dân tộc thuộc địa và Phản biện Huntington: Sự đụng độ của các
định nghĩa
phụ thuộc thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Tuy nhiên, từ lý thuyết đến thực tiễn lại là câu chuyện khác Những giá trị tích cực và hạn chế trong nhân
–đó là cả một quãng đường dài, nhiều chông gai và hết sức gian nan. sinh quan của người Việt
Nhớ anh Mai Khắc Ứng
II.
Trước Chiến tranh thế giới hai, “như hầu hết người Mỹ, Franklin D. Roosevelt ít quan tâm hoặc biết đến
Đông Dương thuộc Pháp”[3]. Thật vậy, Việt Nam cũng như các thuộc địa của Pháp ở Đông Dương nằm
ở ngoại vi quan hệ đối ngoại của Mỹ. Theo Dixee BartholomewFeis, nước Mỹ và F.D.Roosevelt luôn
dành mối quan tâm hàng đầu cho châu Âu và khu vực Mỹ Latinh kề cận[4]. Những chú ý đầu tiên của
chính quyền F.D.Roosevelt đến tình hình Đông Dương liên quan tới sự kiện Pháp Nhật tranh chấp
quần đảo Hoàng Sa (1939), dù thái độ lúc đó của Mỹ là ôn hòa và trung lập. Cùng với sự kiện này, Đông
Dương thuộc Pháp đã chiếm một vị trí nhất định trong tiềm thức của Tổng thống và nhân viên Bộ Ngoại
giao Mỹ nhưng chỉ với tư cách là “một khu vực địa lý không thể phủ nhận dưới sự kiểm soát của Pháp và
có ý nghĩa quan trọng đối với chính phủ Tưởng Giới Thạch, chứ không phải như một vùng đất của
người bản xứ với những quyền và khát vọng của riêng mình"[5].
Vấn đề Đông Dương trở nên đậm nét hơn trong nhận thức của Mỹ, quan trọng thứ hai chỉ sau vấn đề
Trung Hoa Dân Quốc khi Pháp đầu hàng Đức (1940) dẫn đến khả năng Đông Dương có thể rơi vào tay
một thành viên phe Trục là Nhật Bản, nhất là khi nước Nhật ngày càng lấn tới, đưa thêm yêu sách về
chia sẻ quyền lực tại khu vực này và không ngừng gia tăng sức ép lên Chính phủ Vichy. Hơn thế, Nhật
Bản đã trở nên nguy hiểm hơn đối với Hoa Kỳ khi ký Hiệp ước ba bên với Đức và Ý (91940); qua đó liên
kết những cuộc xung đột ở châu Âu và châu Á không chỉ chống Liên Xô mà còn nhằm cả vào Mỹ. Trước
nguy cơ bành trướng sức mạnh của Nhật ở Đông Dương, Mỹ yêu cầu “chính phủ Nhật phải ngừng mọi
hành động chiếm đóng Đông Dương bằng quân đội và hải quân, hoặc ngừng ngay những khởi sự đang
bắt đầu”[6]. Mỹ cũng đề nghị Nhật Bản cùng cam kết “coi Đông Dương là một quốc gia trung lập cùng
một cách thức như nước Thụy Sĩ mà các cường quốc đã công nhận là quốc gia trung lập”[7]; đồng thời,
hứa nếu Nhật Bản tuân thủ những điều kiện đó, sẽ đảm bảo cho Nhật Bản quyền lợi được cung cấp
nguyên liệu từ Đông Dương trên cơ sở cân bằng với các nước khác. Trước khi sự kiện Trân Châu Cảng
nổ ra, Hoa Kỳ thậm chí vẫn còn xúc tiến và hy vọng ký được một Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau với
Nhật. Tuy nhiên, không chấp nhận chia sẻ quyền lợi, Tokyo đã quay lưng lại với hầu hết những đề nghị
của Washington, tiếp tục xúc tiến kế hoạch bành trướng toàn Đông Nam Á. Đáp trả, Hoa Kỳ sử dụng
biện pháp trừng phạt kinh tế, đánh mạnh vào nền sản xuất công nghiệp quốc phòng của Nhật, kiềm chế
sức mạnh quân sự của quốc gia này (thực hiện lệnh cấm vận dầu mỏ, sắt, thép vụn, đóng băng mọi tài
sản của Nhật tại Mỹ[8]). Phản ứng của Washington trước việc Nhật Bản chiếm đóng Đông Dương quyết
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhinrathegioi/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19461954 3/8
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)[Phần I]
liệt hơn so với dự kiến của Tokyo; tuy nhiên, các lệnh cấm vận của Mỹ chẳng những không ngăn được
quyết tâm giành lấy Đông Dương của Nhật, mà trái lại, còn khiêu khích và đẩy nước này vào những
hành động chiến tranh quyết đoán hơn cái vòng luẩn quẩn đó cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ hoàn
toàn quan hệ MỹNhật sau sự kiện Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng (121941).
Chiến tranh với Nhật Bản (chiến tranh Thái Bình Dương) củng cố thêm tầm quan trọng địa chính trị của
Việt Nam đối với Mỹ. Mỹ nhận thức Việt Nam từ vị trí bàn đạp để Nhật Bản tấn công Philippines,
Malaysia, Singapore, Indonesia, Trung Quốc; đồng thời, coi việc chiếm Đông Dương của Nhật như là
một bước tiếp theo quan trọng hơn nhằm nắm quyền kiểm soát vùng biển phía Nam, bao gồm các con
đường thương mại hết sức quan trọng đối với Hoa Kỳ và nhằm kiểm soát các sản phẩm chiến lược đối
với phát triển kinh tế như cao su, thiếc, dầu mỏ…. Khi chiến tranh Thái Bình Dương vừa bùng nổ, trong
các cuộc thảo luận với mật độ tương đối dày đặc giữa đại diện Mỹ Peter Marshall với đại diện chính phủ
Pháp, vấn đề Đông Dương đã liên tục được nhắc tới và Washington bày tỏ sự quan tâm đến việc Pháp
bảo tồn các vùng lãnh thổ ở ngoài (các thuộc địa của Pháp), yêu cầu Pháp tiến hành chiến tranh chống
lại các cuộc xâm lược của những nước thuộc khối Trục tại các khu vực đó. Washington cam kết: “Mọi
cuộc chiến đấu của chính quyền Pháp chống phát xít ở bất kỳ vùng thuộc địa nào cũng sẽ nhận được
sự ủng hộ không chỉ về tinh thần mà còn cả sự hỗ trợ vật chất từ chính phủ Mỹ”[9].
Có thể thấy rằng, sự quan tâm của Mỹ đối với quyền cai trị thuộc địa của Pháp xuất phát từ yêu cầu
đảm bảo thắng lợi của phe Đồng minh trước khối Trục, được giới hạn chủ yếu trong phạm vi bảo vệ
những vùng đất này khỏi sự chiếm đoạt của các nước phát xít, chứ chưa hẳn là sự thừa nhận hoặc THƯ VIỆN ẢNH
đồng ý với việc Pháp tiếp tục thống trị những lãnh thổ này khi chiến tranh kết thúc. Vì lẽ đó, vào tháng 1
1943, trong cuộc họp Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, Tổng thống F.D.Roosevelt tuyên bố rằng
ông "đã rất hồ nghi về việc khôi phục chế độ thực dân của Pháp ở Đông Dương"[10]. Tại Hội nghị
Casablanca (101943), Hội nghị Tehran (111943) và Hội nghị Cairo (111943), vấn đề số phận thuộc
địa của Pháp tiếp tục được đặt ra. Đặc biệt, ở Hội nghị Cairo, F.D.Roosevelt đã đề xuất áp dụng tại
Đông Dương chế độ quản thác quốc tế và đã tìm được tiếng nói chung với Tưởng Giới Thạch về vấn đề
độc lập của Đông Dương sau khi chiến tranh kết thúc[11]. Chế độ quản thác quốc tế đối với Đông
Dương được F.D.Roosevelt nhắc lại một lần nữa trong buổi thảo luận với các đại diện của Thổ Nhĩ Kỳ,
Ai Cập và sau đó là trong Hội nghị Tehran. Thông báo cho I.V.Stalin về quan điểm của Churchill người
ủng hộ việc khôi phục quyền kiểm soát của Pháp đối với các thuộc địa, F.D.Roosevelt lưu ý: “Sau 100
năm thống trị của Pháp ở Đông Dương, người dân nơi đây có cuộc sống ngày càng tồi tệ hơn
trước”[12].
Trong hai năm 19431944, vấn đề Đông Dương được F.D.Roosevelt nhiều lần đề cập đến. Thảo luận về
VIDEO CLIP
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhinrathegioi/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19461954 4/8
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)[Phần I]
VIDEO CLIP
những vấn đề hậu chiến với Ngoại trưởng Anh Anthony Eden (31943) hay trong tiếp xúc với Đại sứ Anh
Halifax tại Washington (11944), F.D.Roosevelt luôn nhắc đến kế hoạch ủy trị đối với Đông Dương và
phê phán chính sách thuộc địa của Pháp: “Người Pháp đã bòn rút nơi này 100 năm, các dân tộc Đông
Dương đáng được hưởng một cái gì đó tốt hơn thế"[13]; đề nghị thay vào việc trao trả Đông Dương lại
cho Pháp thì nên đặt Đông Dương dưới sự ủy trị quốc tế và chuẩn bị cho nền độc lập của Đông Dương
sau này. Tại Hội nghị Yalta (21945), F.D.Roosevelt tiếp tục nhấn mạnh rằng, dưới sự cai trị của người
Pháp "Đông Dương đã không đạt được bất kỳ tiến bộ nào"; do đó, chế độ quản thác quốc tế là một sự
lựa chọn thích hợp[14] và quan điểm này của Mỹ nhận được sự tán thành của Liên Xô sự ủng hộ này là
rất quan trọng, nó làm tăng khả năng hiện thực hóa quan điểm này trong thực tiễn.
Sáng kiến thiết lập chế độ ủy trị quốc tế đối với Đông Dương của F.D.Roosevelt vấp phải sự phản ứng
quyết liệt của Anh (quốc gia sở hữu chuỗi thuộc địa lớn nhất toàn cầu) và một số quan chức Mỹ. Sự
phản đối này lớn dần lên khi cuộc chiến chống lại Nhật Bản ngày càng cần huy động nhiều nhân lực, vật
lực trong khi Pháp có thể đáp ứng phần nào yêu cầu này. Bên cạnh đó, Ủy ban An ninh quốc gia Mỹ
cũng cho rằng, việc Pháp khôi phục chế độ thuộc địa “góp phần làm nó trở nên lớn mạnh hơn và đó là
một đối trọng tốt trước nước Nga cộng sản, có lợi cho chính sách hậu chiến của Washington trong thế
đối đầu với Moscow”[15]. Ngoài ra, một số quan chức cấp cao của Washington còn muốn tránh những
va vấp và xung đột không cần thiết với nước Anh chỉ vì Đông Dương khi Hoa Kỳ còn cần đến sự ủng hộ
Videoclip
của quốc gia này trong nhiều vấn đề quốc tế khác.
Dưới những áp lực nêu trên, F.D.Roosevelt buộc phải nhượng bộ và trong cuộc họp báo vào tháng 2
1945, đã điều chỉnh chủ trương ủy trị quốc tế đối với Đông Dương, mở rộng thành phần tham gia, đồng
ý để Pháp có mặt trong Hội đồng ủy trị quốc tế với điều kiện Pháp coi độc lập của Đông Dương là mục
tiêu chính[16]. Tháng 21945, tại Hội nghị Yanta, Mỹ (và cả Liên Xô) tuyên bố không nhất thiết phải áp
dụng chế độ ủy trị quốc tế đối với các thuộc địa của các nước đế quốc[17]. Cũng từ thời điểm này cho
đến khi ngã bệnh và mất (41945), Tổng thống F.D.Roosevelt không còn trở lại với yêu cầu thiết lập chế
độ quản thác quốc tế đối với Đông Dương cũng như thôi không theo đuổi kế hoạch tương lai của Đông
Dương, đẩy nó lùi vào những vấn đề hậu chiến: “Tôi không muốn dính líu vào bất cứ quyết định nào về
Đông Dương. Vấn đề này cần giải quyết sau khi chiến tranh kết thúc”[18]. Tương tự, F.D.Roosevelt cũng
không muốn thúc đẩy các nỗ lực quân sự để giải phóng Đông Dương khỏi sự thống trị của Nhật Bản,
giải thích rằng tất cả các nguồn lực cần được tập trung cho chiến tranh Thái Bình Dương.
Như vậy, dù rất cố gắng, song F.D.Roosevelt đã không thể đưa ra những giải pháp dứt điểm cho số
phận Đông Dương hậu chiến. Người ta cũng nhận thấy rằng, dù nhiều lần nhắc đến chế độ quản thác
quốc tế đối với Đông Dương, song trên thực tế, F.D.Roosevelt đã không hành động quyết liệt. Nhà
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhinrathegioi/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19461954 5/8
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)[Phần I]
nghiên cứu Sanford B. Hunt cho biết: “Không có một bằng chứng nào cho thấy Tổng thống
F.D.Roosevelt từng ra lệnh hoặc yêu cầu soạn thảo các kế hoạch cụ thể nhằm thiết lập chế độ ủy trị cho
Đông Dương”[19]. Dixee BartholomewFeis tác giả cuốn sách “OSS và Hồ Chí Minh: Đồng minh bất
ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật” gọi kế hoạch quản thác quốc tế cho Đông Dương của
F.D.Roosevelt là một kế hoạch lỏng lẻo, dù đó là kế hoạch mà thông qua đó, F.D.Roosevelt hy vọng nó
“sẽ cho phép Mỹ thiết lập các căn cứ hải quân, không quân dài hạn tại những vị trí chiến lược trên Thái
Bình Dương và bất kỳ những nơi không tồn tại mối ác cảm truyền thống đối với quan điểm chính trị dựa
vào sức mạnh của Mỹ"[20]. Gabriel Kolko thì khẳng định rằng, việc loại bỏ quyền lực của Pháp tại các
thuộc địa được thúc đẩy bởi mong muốn trừng phạt sự hợp tác của Pháp với Đức và Nhật Bản, hơn là vì
một niềm tin thực sự vào giá trị nội tại của tự do cho Việt Nam[21]. Ý tưởng về ủy thác quốc tế đối với
Đông Dương quả thực là mong manh và nó càng trở nên dễ vỡ trước áp lực được các đồng minh của
nước Mỹ bền bỉ tạo ra cũng như sức nặng ngày càng lớn các lợi ích quốc gia của Mỹ, để cuối cùng nó
lặng lẽ chết cùng với sự ra đi của F.D.Roosevelt.
[1] Báo Sự thật, số 32, ngày 20 41946
[2] Charter of the United Nations, United Nations, http://www.un.org/en/charterunitednations/index.html
[3] Dixee BartholomewFeis: The OSS and Ho Chi Minh: Unexpected Allies in the War against Japan,
University Press of Kansas, 2006, p.197.
[4] Dixee BartholomewFeis: The OSS and Ho Chi Minh, Ibid, p.199.
[5] Dixee BartholomewFeis: The OSS and Ho Chi Minh, Ibid, p.199.
[6] The Pentagon Papers Gravel Edition (Chapter I, "Background to the Crisis, 194050”), Volume 1,
Boston: Beacon Press, 1971.
[7] The Pentagon Papers Gravel Edition, Ibid.
[8] Kết quả là Nhật Bản bị mất ¾ quan hệ kinh tế thương mại với nước ngoài; mất 88 % lượng dầu nhập
khẩu dẫn đến dự trữ dầu của Nhật Bản chỉ đủ dùng cho ba năm thời bình hoặc 1,5 năm thời chiến.
[9] The Secretary of State to the Ambassador in France// Foreign Relations of the United States (FRUS),
1942. Vol. II. Wash, 1962, p. 124.
[10] Hess G. R: Franklin Roosevelt and Indochina, The Journal of American History, 1972, Vol. 59, № 2,
p.355.
[11] Foreign Relations of the United States, The Conferences at Cairo and Tehran, 1943, Wash, 1961, p.
325.
[12] Foreign Relations of the United States, The Conferences at Cairo and Tehran, Ibid, p. 485.
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhinrathegioi/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19461954 6/8
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)[Phần I]
[13] foreign Relations of the united States 1944, Government Printins Office, Washington, D.C., 1965,
Vol III, p. 773.
[14] United States Department of State: Foreign relations of the United States. Conferences at Malta and
Yalta, 1945, U.S. Government Printing Office, 1945, p.770.
[15] Smith T. O: Churchill, America and Vietnam, 1941 1945, Palgrave Macmillan UK,2011, p.12.
[16] Thomas G. Paterson and Dennis Merrill (Edited): Major Problems in American Foreign Policy,
Volume II: Since 1914, 4th edition, Lexington, MA: D.C. Heath and Company, 1995, p. 190.
[17] United States Department of State: Foreign relations of the United States. Conferences at Malta and
Yalta, 1945, Ibid, p.977.
[18] Hess G. R: Franklin Roosevelt and Indochina, Ibid, p.363.
[19] Sanford B. Hunt, IV, B.A: Dropping the baton: decisions in United States policy on Indochina, 1943
1945, A Thesis in History, Texas Tech University, p.97.
[20] Dixee BartholomewFeis: The OSS and Ho Chi Minh: Unexpected Allies in the War against Japan,
Ibid, p.201.
[21] Gabriel Kolko: The United States in Vietnam 194466: Origins and Objectives of an Intervention
Objectives of an Intervention, Outsider Insight, 2014, p.15.
..........
CÒN NỮA
CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN:
Chưa có tiền lệ!
Ghi chép trung thực về sự kết thúc chiến tranh Việt Nam:
Tương lai dân chủ xã hội của Mỹ
Tháng 102013: bước suy thoái của siêu cường Hoa Kỳ
Đảng Cộng Hoà làm lung lay niềm tin vào nền Dân Chủ Mỹ
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhinrathegioi/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19461954 7/8
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946) [Phần 2]
Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946)
[Phần 2]
MAI HOA
Thứ tư, 19 Tháng 12 2018 10:41
font size Web vhna
Tìm
Thích 5 Chia sẻ Tweet
BÀI NHIỀU NGƯỜI ĐỌC TRONG TUẦN
III.
Sau cái chết của F.D.Roosevelt, người kế nhiệm H.S.Truman từng bước điều chỉnh chính sách đối Từ nước đến gió… (Đọc Giấu vàng trong
gió thu, Chân dung văn học Đàm luận
ngoại; theo đó, H.S.Truman đã xem xét lại một cách căn bản ý tưởng thiết lập chế độ quản thác quốc tế
văn chương của Khuất Bình Nguyên, Nxb
đối với Đông Dương của F.D.Roosevelt. Mỹ dần thay đổi thái độ, trở nên mềm mỏng hơn và Ngoại Hội Nhà văn, 2019)
trưởng Mỹ E.R.Stettinius đã khẳng định với Ngoại trưởng Pháp Georges Bidault như sau: "Mỹ chưa Hà Nội tranh luận đầu 1975 về đường lối
chiến lược ở miền Nam
từng đặt vấn đề nghi ngờ chủ quyền của pháp ở Đông Dương mặc dù một số chính giới ở Mỹ có chỉ
trích chính sách trước đây của Pháp đối với khu vực này"[1]. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng, dù từ bỏ
chính sách loại người Pháp ra khỏi mảnh đất này, bỏ qua những nỗ lực mà Tổng thống F.D.Roosevelt
theo đuổi một thời gian dài trong giải quyết vấn đề Đông Dương, song Washington vẫn mong muốn
Pháp trao cho Đông Dương quyền tự trị[2]. Trong Hội nghị thành lập Liên Hợp Quốc (851945), tuyên
bố không phản đối chủ quyền Pháp ở Đông Dương, song Bộ Ngoại giao Mỹ yêu cầu Pháp cải thiện điều
kiện chính trị, kinh tế ở bán đảo này, bày tỏ hy vọng sớm nhìn thấy một Đông Dương tự trị. Tại Hội nghị
Potsdam (71945), sự lập lờ nước đôi của Hoa Kỳ về Đông Dương được chứng thực bởi quyết định cho
phép người Anh giải giáp quân đội Nhật ở Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào phía Nam. Điều đó cũng có
nghĩa là đã tạo ra một đảm bảo chắc chắc từ phía các nước Đồng minh đối với sự trở lại Đông Dương
của người Pháp, bởi hơn ai hết, Anh luôn là nước trung thành với quan điểm duy trì chế độ thuộc địa
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhunggocnhinvanhoa/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19451946phan2 1/6
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946) [Phần 2]
cũng như kiên quyết ủng hộ Pháp trở về lãnh địa Đông Dương trên lập trường ấy, việc Anh giúp Pháp
tái chiếm Đông Dương là tất yếu.
Tháng 81945, Chính phủ Hồ Chí Minh nắm quyền lãnh đạo đất nước, tuyên bố thành lập nước
VNDCCH. Trước đó, sớm nhận thấy vai trò của Mỹ trong giải quyết các vấn đề quốc tế, ngay từ năm
1944, Hồ Chí Minh đã thiết lập quan hệ với tổ chức Office of Strategic Services (OSS) của Mỹ đang hoạt
động ở miền Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam, hy vọng rằng hợp tác với Hoa Kỳ có thể mang lại
sự ủng hộ của Washington đối với vấn đề độc lập của Việt Nam sau chiến tranh. Sau khi Cách mạng
tháng Tám thắng lợi, tin tưởng ở thiện chí của nước Mỹ, Chính phủ Hồ Chí Minh đã liên tiếp gửi công
hàm, thư, điện đến Tổng thống H.S.Truman và Ngoại trưởng G.Byrnes, đề nghị can thiệp, buộc Anh
chấm dứt những hành động vi phạm quyền dân tộc của Việt Nam, yêu cầu người Anh thực hiện những
nguyên tắc tự do, tự quyết của Hiến chương Đại Tây Dương[3]. Không dưới một lần, Hồ Chí Minh đề
nghị nước Mỹ với tư cách là những chiến sĩ bảo vệ công bằng thế giới có những bước đi quyết định ủng
hộ nền độc lập của Việt Nam. Đặc biệt, để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ cũng như một số nước khác,
“phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và ở trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng
của nước nhà”[4], Đảng cộng sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán (111945); đồng thời, Hồ Chí
Minh tranh thủ mọi cơ hội để bày tỏ với Mỹ về việc Việt Nam hy vọng sự giúp đỡ từ nước này hơn là từ
Liên Xô[5].
Trước những yêu cầu khẩn thiết của Chính phủ Hồ Chí Minh, phản ứng của Mỹ là khá bất lợi
Washington đã im lặng. Cánh cửa hy vọng của Việt Nam DCCH từ phía Mỹ đã bị khóa chặt, bởi tin tức
OSS gửi về (OSS có mặt tại Hà Nội ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công) đã khẳng định chắc
BÀI NỔI BẬT
chắn rằng, Việt Minh hoàn toàn là một tổ chức cộng sản[6] và sự kiện Đảng CSĐD giải tán chỉ là một
bước đi sách lược. Trong khi đó, từ tháng 81945, nước Pháp không ngừng hứa hẹn sẽ cho phép cả Mỹ Vua Hàm Nghi Người nghệ sĩ hội họa và điêu
khắc
và Anh tiếp cận, khai thác các nguồn lực kinh tế của Đông Dương sau khi Pháp quay trở lại[7]. Và việc gì Từ «Sự Ðụng Ðộ Giữa Các Nền Văn Minh» và
đến đã phải đến vào cuối tháng 81945, Tổng thống H.S.Truman chính thức tuyên bố với Tổng thống Nhân Chủng Học nhìn lại Chủ Nghĩa Tương Ðối
Văn Hoá
Pháp Charles de Gaulle đang ở thăm Washington rằng, Hoa Kỳ ủng hộ sự trở lại Đông Dương của Giải thuộc địa và hậu thuộc địa
Pháp[8]. Quyết định này của Nhà Trắng được đánh giá là một trong những quyết định có tính định hình Nguồn sáng Vũ Ngọc Phan
tiến trình lịch sử thế giới và khu vực Đông Nam Á trong nhiều thập kỷ sau đó. Hoàng Nguyên, người nhạc sỹ lãng mạn và tài
hoa
Tháng 91945, thực hiện nhiệm vụ vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật Bản theo quyết định của Lá bài tẩy trong Chiến Tranh Thương Mại Mỹ
Hội nghị Potsdam, quân đội Anh đã tái vũ trang cho tù binh Pháp. Ngày 2391945, được người Anh hậu Trung
80 năm thành lập ấp Hà Đông (Đà Lạt): Tổng
thuẫn, quân đội Pháp đánh chiếm Sài Gòn, thực hiện cuộc tái chiếm Việt Nam và Đông Dương. Sự thay đốc Hoàng Trọng Phu có vai trò như thế nào?
đổi thái độ của Mỹ đối với Đông Dương đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất định cho Pháp quay trở Thi tốt nghiệp THPT: Nên hay không?
Nguy cơ từ một nền giáo dục gian lận
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhunggocnhinvanhoa/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19451946phan2 2/6
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946) [Phần 2]
lại nơi này, nhất là khi Pháp có được sự giúp đỡ của người đồng cảnh ngộ và đồng lợi ích trên vấn đề Phản biện Huntington: Sự đụng độ của các
định nghĩa
thuộc địa là nước Anh. Cần nói thêm rằng, dù không chống lại việc Pháp tái lập quyền thống trị đối với Những giá trị tích cực và hạn chế trong nhân
Đông Dương, song Mỹ vẫn e ngại quyết định này làm hỏng hình ảnh một nước Mỹ phản đối chính sách sinh quan của người Việt
Nhớ anh Mai Khắc Ứng
thực dân; do đó, tháng 101945, khi tuyên bố “không phản đối việc tái lập quyền kiểm soát Đông Dương
của Pháp”[9], Mỹ đồng thời khẳng định không ủng hộ người Pháp thiết lập quyền thống trị đối với Đông
Dương bằng vũ lực, chỉ chấp nhận cho Pháp lập lại sự kiểm soát ấy trên cơ sở có được sự ủng hộ của
dân chúng Đông Dương. Có vẻ như Mỹ giữ thái độ trung lập, không chấp nhận chính quyền VNDCCH
cũng không giúp Pháp đánh chiếm Đông Dương để bảo toàn vị thế quốc gia luôn ủng hộ việc thiết lập
một thế giới công bằng. Song, nếu đặt thái độ trung lập đó trong bối cảnh của một cuộc đối đầu không
cân sức giữa Việt Minh và Pháp, thì thực ra người Mỹ đã nghiêng hẳn và ngầm ủng hộ đồng minh của
mình là nước Pháp. Thật vậy, phân tích những diễn tiến trong thái độ của Mỹ đối với Đông Dương, Đô
đốc Anh Mountbatten đã chắc nịch khẳng định với Tướng Leclerc: “Với cái chết của Roosevelt, Pháp có
thể quay trở lại Đông Dương, vấn đề quản thác quốc tế cho Đông Dương đã trở thành vô nghĩa”[10].
Hoàn toàn vững tâm bởi những chuyển biến có lợi cho mục tiêu quay trở lại Đông Dương, Tổng thống
Pháp Charles de D Gaulle tuyên bố: "Lập trường của Pháp về Đông Dương rất đơn giản: Pháp có ý định
thu hồi chủ quyền của mình trên toàn Đông Dương. Dĩ nhiên là sự khôi phục đó sẽ kéo theo một thể chế
mới, nhưng đối với chúng tôi, chủ quyền của Pháp là vấn đề hàng đầu"[11].
Nhận định về sự thay đổi trong chính sách của Mỹ đối với Đông Dương từ tháng 21945, George
Herring cho rằng đó là kết quả của những tính toán nhằm nhận được sự hỗ trợ mang tính đòn bẩy của
Pháp trong cuộc chiến chống Liên Xô[12]. Không chỉ có vậy, trong khi ủng hộ quyền tự quyết dân tộc,
Hoa Kỳ còn bị ràng buộc bởi các mối quan hệ với những đồng minh châu Âu những quốc gia sở hữu số
lượng lớn thuộc địa, đã và đang làm giàu từ những mảnh đất màu mỡ ấy. Chịu tác động, chi phối bởi
những phức tạp từ cuộc Chiến tranh Lạnh (dù mới chớm nở song đã hứa hẹn những cạnh tranh, đối
đầu quyế liệt) cũng nhu cầu củng cố quan hệ đồng minh để đối phó với một thế giới cộng sản đang mở
rộng hàng ngày, hàng giờ và tham vọng chiến lược của Liên Xô ở châu Âu, Hoa Kỳ khó có thể hành
động dứt khoát hơn. Thái độ của Washington đối sự việc Pháp tái chiếm Việt Nam còn được đặt dưới
lăng kính của các vấn đề châu Âu, nhất là Paris đã một vài lần ý tứ đề cập đến việc rút lui khỏi Kế hoạch
Marshall nếu không được bật đèn xanh cho việc trở lại Đông Dương vô điều kiện[13]. Ngoài ra, Mỹ còn
lo ngại rằng thoát ra khỏi chế độ thuộc địa, các quốc gia mới giành độc lập có thể nhận sự hỗ trợ từ Liên
Xô, rơi vào vùng ảnh hưởng của khối cộng sản –điều đó chắc chắn dẫn đến những thay đổi trong cán
cân lực lượng nghiêng về phía có lợi cho Liên Xô; đồng thời, đánh mạnh/làm giảm các nguồn lực kinh tế
của các đồng minh của Mỹ, khiến thế giới tư bản bị thu hẹp và suy yếu. Các phong trào đấu tranh đòi
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhunggocnhinvanhoa/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19451946phan2 3/6
5/2/2019 Lập trường của Mỹ trước việc Pháp tái chiếm Đông Dương (1945 1946) [Phần 2]
độc lập diễn ra liên tiếp, sôi nổi, mạnh mẽ trên nhiều khu vực của thế giới càng củng cố thêm mối lo ngại
này của Hoa Kỳ và một nước Việt Nam cộng sản không phải là sự lựa chọn của Washington vào thời
điểm đó cũng như nhiều năm sau này.
Viết về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, nhiều nhà nghiên cứu thường đề cập đến “một nền
hòa bình bị bỏ lỡ”. Một câu hỏi được đặt ra là: Từng có hay không một nền hòa bình bị bỏ lỡ? Câu trả
lời là không khi đặt các chủ thể có liên quan trực tiếp và có vai trò quyết định đối với nền hòa bình ấy
trên một trục tham chiếu: Pháp không bao giờ chịu từ bỏ Đông Dương, VNDCCH lựa chọn con đường
giải phóng dân tộc, đi tới độc lập, tự do dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác –Lênin, còn Mỹ thì bị ám ảnh
bởi bóng ma của chủ nghĩa cộng sản và dẫn dắt bởi niềm tin tuyệt đối là phải chống lại bóng ma ấy.
[1]U.S. Department of State: Foreign Relations of the United States, Government Printing Office, Vol VI,
Washington, D.C 1970, p.307.
[2] William Conrad Gibbons:The U.S. government and the Vietnam war, Excutive and Legislative roles
and relationships, part I, 19451960, Princeton University press, Princeton, New Jersey, 1986, p.21.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.137.
[4] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.19.
[5] William J. Duiker:Ho Chi minh, A life, Hyperion, New York, 2000, p.366.
[6] Office of the Secretary of Defense: United States Vietnam Relations 1945 1967 (The Pentagon
Papers), Volume 1, Nimble Books, 2011, p.66. THƯ VIỆN ẢNH
[7] Gabriel Kolko: The United States in Vietnam 194466: Origins and Objectives of an Intervention
Objectives of an Intervention, Ibid, p.18.
[8] Gabriel Kolko: The United States in Vietnam 194466: Origins and Objectives of an Intervention
Objectives of an Intervention, Ibd, p.19.
[9] The Pentagon Papers Gravel Edition, Ibid.
[10] The Pentagon Papers Gravel Edition, Ibid.
[11] De Gaulle bluntly reaffirms French position in Indochina, End Of Empire.asia.
[12] George S. Herring, "The Truman Administration and the Restoration of French Sovereignty in
Indochina", Ibid, p.112.
[13] America’s Vietnam War in Indochina, us.history.com
VIDEO CLIP
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyenmucgocnhinvanhoa/nhunggocnhinvanhoa/laptruongcuamytruocviecphaptaichiemdongduong19451946phan2 4/6